Trong khi đó, doanh thu dữ liệu chỉ đạt 23,4% tổng doanh thu (trung bình thế giới đạt trên 43%). Bên cạnh đó, số thuê bao băng rộng di động chỉ đạt 61,41% (xếp hạng khoảng 90 thế giới, thứ 9 khu vực, thấp hơn trung bình thế giới là 69,3%).
Do đó, cơ quan quản lý cần thúc đẩy cơ chế sandbox trong việc triển khai các dịch vụ mới, không gian mới cho việc phát triển của các doanh nghiệp viễn thông (như dịch vụ Mobile Money). Cụ thể, trong năm 2020, Cục Viễn thông sẽ phải nghiên cứu ban hành cơ chế chính sách thúc đẩy nhanh việc chuyển dịch từ dịch vụ truyền thống (thoại, sms) sang dịch vụ băng rộng, data và các dịch vụ tích hợp CNTT (Cloud computing, Big Data,…).
Đồng thời Cục Viễn thông cần có sự hỗ trợ thúc đẩy các doanh nghiệp viễn thông lớn mở rộng, tìm kiếm các không gian mới, sân chơi mới, cơ hội mới bằng cách tham gia cung cấp dịch vụ tài chính toàn diện, thông qua cung cấp các dịch vụ ví điện tử, trung gian thanh toán, mobile money hay cung cấp các dịch vụ tích hợp, dịch vụ công nghệ, hỗ trợ các bài toán lớn như smartcity, x-tech, tự động hoá các ngành công nghiệp…
Báo cáo của Bộ TT&TT cũng cho biết, tổng doanh thu viễn thông 469,7 nghìn tỷ đồng (tăng 18,67% so với cùng kỳ năm 2018). Trong đó, doanh thu dịch vụ viễn thông ước đạt 134 nghìn tỷ đồng (tăng 3,5% so với cùng kỳ năm 2018), chiếm 28,53% doanh thu toàn ngành. Số lượng thuê bao điện thoại di động đạt hơn 125,8 triệu thuê bao ( giảm 3,5% so với cùng kỳ năm 2018).
Tuy nhiên, số thuê bao băng rộng có sự gia tăng đáng kể, trong đó băng rộng di động (3G, 4G) đạt 61,3 triệu thuê bao chiếm 48,7 % tổng số thuê bao di động ( 16,1% so với cùng kỳ năm 2018), băng rộng cố định đạt 13,58 triệu thuê bao (tăng 14% so với cùng kỳ năm 2018). Tốc độ băng rộng di động tải xuống thống kê đến qíu 4/2019 là 29,08 MBps, tiệm cận với tốc độ trung binh của thế giới (30,93 Mbps). Bên cạnh đó, mạng di động (2G/3G/4G) phủ sóng tới 99,6% dân số, tỷ lệ triển khai cáp quang đạt 99,46% dân số.
Năm 2019, chỉ số HHI phản ánh mức độ tập trung của thị trường viễn thông di động tại Việt Nam vẫn ở mức độ cao (3.709,95) tăng 153 đơn vị so với năm 2018. Chỉ số HHI cao thể hiện mức độ cạnh tranh thấp và càng gần với độc quyền. Tổng thị phần doanh thu của 3 nhà mạng lớn nhất Việt Nam (Viettel, VinaPhone và MobiFone) năm 2019 là 96,2%, tăng 1% so với năm 2018 và tiếp tục duy trì ở mức độ cao trong nhiều năm vừa qua.